9 ĐỜI VUA NHÀ LÝ TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM (1009 - 1228)
Nhà Lý là triều đại quân chủ Việt Nam do Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) sáng lập vào năm 1009. Nhà Lý truyền nối được 9 đời, với Hoàng đế cuối cùng là Lý Chiêu Hoàng, vị nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Việt Nam.
1: Lý Thái Tổ (1009 - 1028)
Lý Thái Tổ tên húy là Lý Công Uẩn, sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (974) là người châu Cổ Pháp (thuộc huyện Tiên Sơn tỉnh Bắc Ninh ngày nay).
Thời Lê Ngọa Triều, Lý Công Uẩn giữ chức Tứ sương quân phó chỉ huy sứ, sau đó được thăng đến chức Tả thân vệ điện điền chỉ huy sứ. Bới chức này, sử cũ thường gọi vua là Thân vệ. Năm Kỷ Dậu (1009), Lê Ngọa Triều mất, ông được triều thần (đại diện là Đào Cam Mộc) và các nhà sư (đại diện là Sư Vạn Hạnh) tôn lên ngôi vua. Vua lên ngôi tháng 10 năm Kỷ Dậu (1009) nhưng bắt đầu đặt niên hiệu riêng từ 1010 nên sử vẫn thường tính năm đầu đời vua Lý Thái Tổ là năm 1010. Tháng 7 năm 1010 vua quyết định dời đô về Thăng Long. Vua ở ngôi 18 năm, mất ngày 3/3 năm Mậu Thình 1028, thọ 54 tuổi. Trong 18 năm làm vua ông chỉ dùng một niên hiệu duy nhất là Thuận Thiên.
Chiếu Dời Đô!
2: Lý Thái Tông (1028 - 1054)
Vua Lý Thái Tông tên húy là Lý Phật Mã hay Lý Đức Chính, con trưởng của Lý Thái Tổ, mẹ đẻ là Lê Thái Hậu. Ông sinh ngày 26 tháng 6 năm Canh Tí (1000) tại Hoa Lư. Tháng 4 năm Nhâm Tí (1012), ông được lập Thái Tử và lên ngôi vua vào ngày 4 tháng 3 năm Mậu Thìn (1028), ở ngôi 26 năm, mất ngày 1/10 năm Giáp Ngọ (1054), thọ 54 tuổi.
Vua Lý Thái Tông là vị vua anh minh và có nhiều đóng góp trong triều đại nhà Lý. Chính ông thân chinh đem quân đi dẹp cuộc nổi dậy của Nùng Tồn Phúc, Nùng Trí Cao, năm 1044 sau cuộc chiến tranh với Chiêm Thành vua cho đại xá miễn một nửa tiền thuế để khoan sức dân, năm 1049 vua cho xây chùa Diên Hựu (Chùa Một Cột), năm 1042 vua cho ban hành Bộ luật Hình Thư là bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta.
Trong thời gian ở ngôi, ông có 6 lần đặt niên hiệu đó là: Thiên Thành (1028 - 1034), Thông Thụy (1034 - 1039), Càn Phù Hữu Đạo (1039 - 1042), Minh Đạo (1042 - 1044), Thiên Cảm Thánh Vũ (1044 - 1049), Sùng Hưng Đại Bảo (1049 - 1054).
3: Lý Thánh Tông (1054 - 1072)
Tên húy là Nhật Tôn. Các bộ chính sử đều chép vua là con trưởng của vua Lý Thái Tông, mẹ người họ Mai, tước Kim Thiên Thái Hậu (duy chỉ có Đại Việt Sử Lược thì chép vua là con thứ ba, mẹ là Linh Cảm Thái Hậu). Vua sinh ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi (1023) tại kinh thành Thăng Long. Ngày 6 tháng 5 năm Mậu Thìn (1028) ông được lập thành Thái Tử và lên ngôi ngày 1 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1054), ông ở ngôi 18 năm, mất tháng 1 năm Nhâm Tý 1072, thọ 49 tuổi.
Vua được xem là ông vua thương dân, gắn bó với nông dân, đồng ruộng, ông thường đi xem cấy, gặt hái. Năm 1070 vua cho mở trường lập Văn Miếu tại kinh đô Thăng Long.
Trong 18 năm ở ngôi, vua Lý Thánh Tông đã năm lần đặt niên hiệu, đó là: Long Thụy Thái Bình (1054 - 1058), Chương Thánh Gia Khánh (1059 - 1065), Long Chương Thiên Tự (1066 - 1068), Thiên Huống Bảo Tượng (1068 - 1069), Thần Vũ (1069 - 1072).
4: Lý Nhân Tông (1072 - 1127)
Tên húy là Càn Đức, con trưởng của vua Lý Thánh Tông, mẹ đẻ là Linh Nhân Thái Hậu (tức bà Ỷ Lan). Vua sinh ngày 25 tháng 1 năm Bính Ngọ (1066) tại kinh thành Thăng Long, lên ngôi tháng 1 năm Nhâm Tí (1072), ở ngôi 55 năm, mất ngày 12 tháng 12 năm Đinh Mùi (1127), thọ 61 tuổi.
Trong thời gian vua Lý Nhân Tông ở ngôi, nhà Tống có ý đồ xâm lược nước ta, vua và Thái uý Lý Thường Kiệt đã chủ động đánh đuổi quân Tống, và đã chiến thắng ở sông Như Nguyệt, đánh đuổi được quân Tống.
Năm 1076, vua cho mở trường Quốc Tử Giám ở kinh đô Thăng Long, cũng từ đây, nền giáo dục đại học của nước ta được khai sinh.
Trong 55 năm ở ngôi vua đã 8 lần đặt niên hiệu đó là: Thái Ninh (1072 - 1076), Anh Vũ Chiêu Thắng (1076 - 1084), Quảng Hựu (1085 - 1092), Hội Phong (1092 - 1100), Long Phù (Long Phù Nguyên Hóa) (1101 - 1109), Hội Tường Đại Khánh (1110 - 1119), Thiên Phù Duệ Vũ (1120 - 1126), Thiên Phù Khánh Thọ (1127).
Bài thơ Nam Quốc Sơn Hà
5: Lý Thần Tông (1127 - 1138)
Tên húy là Dương Hoán, con trưởng của em ruột vua Nhân Tông là Sùng Hiền Hầu, được vua Trần Nhân Tông nhận làm con nuôi rồi sau truyền ngôi cho, mẹ đẻ là phu nhân họ Đỗ. Thần Tông là cháu ruột của vua Nhân Tông. Vua sinh tháng 6 năm Bính Thân (1116), năm Đinh Dậu (1117) thì được Nhân Tông nhận làm con nuôi. Khi vua Nhân Tông mất, ông được lên nối ngôi vào cuối tháng 12 năm Đinh Mùi (1127). Vua ở ngôi 10 năm, mất ngày 26 tháng 9 năm Mậu Ngọ (1138), thọ 22 tuổi.
Vua Lý Thần Tông coi trọng việc phát triển nông nghiệp, thực hiện chính sách "ngụ binh ư nông", cho binh lính đổi phiên, cứ lần lượt 6 tháng một được về làm ruộng, do vậy nhân dân no đủ, an cư lạc nghiệp. Trong thời gian ở ngôi, vua Lý Thần Tông đã đặt hai niên hiệu: Thiên Thuận (1128 - 1132), Thiên Chương Bảo Tự (1133 - 1138).
6: Lý Anh Tông (1138 - 1175)
Tên húy là Thiên Tộ, con trưởng của Lý Thần Tông, mẹ đẻ là Lê Thái Hậu. Vua sinh tháng 4 năm Bính Thìn (1136) và lên ngôi ngày 1 tháng 10 năm Mậu Ngọ (1138), ở ngôi 37 năm mất vào tháng 7 năm Ất Mùi (1175) thọ 39 tuổi.
Trong 37 năm ở ngôi, ông đã đặt 4 niên hiệu: Thiệu Minh (1138 - 1140), Đại Định (1140 - 1162), Chính Long Bảo Ứng (1163 - 1174), Thiên Cảm Chí Bảo (1174 - 1175).
7: Lý Cao Tông (1175 - 1210)
Tên húy là Long Trát hay Long Cán, là con thứ 6 của Vua Anh Tông, mẹ đẻ là Thụy Châu Thái Hậu, người họ Đỗ. Vua sinh ngày 25 tháng 5 năm Quý Tị (1173), lên ngôi tháng 7 năm Ất Mùi (1175), ở ngôi 35 năm, mất ngày 28 tháng 10 năm Canh Ngọ (1210), thọ 37 tuổi.
Trong thời gian ở ngôi, vua ăn chơi vô độ do vậy giặc cướp nổi lên ở nhiều nơi, dân đói kém liên miên, cơ nghiệp nhà Lý suy đồi từ đây dù đã có dấu hiệu từ thời vua Lý Anh Tông.
Vua Lý Cao Tông có 4 lần đặt niên hiệu: Trinh Phù (1176 - 1186), Thiên Tư Gia Thụy (1186 - 1202), Thiên Gia Bảo Hựu (1202 - 1205), Trị Bình Long Ứng (1205 - 1010).
8: Lý Huệ Tông (1210 - 1224)
Tên húy là Hạo Sảm, con trưởng của vua Cao Tông, mẹ để là Đàm Thái Hậu. Vua sinh tháng 7 năm Giáp Dần (1194), được lập làm Thái tử vào tháng 1 năm Mậu Thìn (1208), lên ngôi cuối năm Canh Ngọ (1210), ở ngôi 14 năm. Năm Giáp Thân (1224), Vua nhường ngôi cho con gái thứ là Lý Chiêu Hoàng rồi đi tu ở chùa Chân Giáo (trong thành Thăng Long, hiệu là Huệ Quang Thiền Sư). Mặc dù ông ở ngôi Vua, nhưng mọi việc triều đình đều do Trần Thủ Độ điều hành. Huệ Tông sau đó bị nhà Trần bức tử vào tháng 8 năm Bính Tuất (1226), thọ 32 tuổi. Trong 14 năm trị vì, Vua chỉ đặt một niên hiệu là Kiến Gia (1211 - 1224)
9: Lý Chiêu Hoàng (1224 - 1225)
Tên húy là Phật Kim, lại có tên húy khác là Lý Thiên Hinh Nữ, được vua cha là Lý Huệ Tộng phong làm Chiêu Thánh công chúa, là con thứ hai của vua Lý Huệ Tông, mẹ đè là Thuận Trinh thái hậu Trần Thị Dung. Bà sinh tháng 9 năm Mậu Dần (1218). Tháng 10 năm Giáp Thân (1224) được vua cha truyền ngôi. Đến tháng 12 năm Ất Dậu (1225) dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh (là cháu gọi Trần Thủ Độ bằng chú, sau này là vua Trần Thánh Tông), từ đây bà là Chiêu Thánh hoàng hậu. Nhà Lý chấm dứt từ đó. Lý Chiêu Hoàng mất vào tháng 3 năm Mậu Dần (1278), thọ 60 tuổi. Niên hiệu trong thời gian bà ở ngôi là Thiên Chương Hữu Đạo.
12 ĐỜI VUA NHÀ TRẦN TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM
Nhà Trần là triều đại quân chủ Việt Nam với người mở đầu là Trần Cảnh (Trần Thái Tông). Trong thời gian tồn tại, nhà Trần có tất cả 12 đời Hoàng đế.
Nhà Lý suy vong, quyền lực rơi hết vào tay Trần Thủ Độ. Sau khi ép Lý Chiêu Hoàng (7 tuổi) nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh (8 tuổi) thì thời đại của nhà Trần chính thức bắt đầu năm 1225, tuy Trần Cảnh (Trần Thái Tông) làm vua nhưng quyền lực và người đặt nền móng cho sự ra đời chính thức của Nhà Trần là Trần Thủ Độ. Trong 175 trị vì, nhà Trần đã lãnh đạo nhân dân Đại Việt ba lần kháng chiến chống quân Mông Nguyên thành công vào các năm 1258, 1285, 1288.
Nhà Trần bắt đầu khi vua Trần Thái Tông lên ngôi năm 1225 và chấm dứt khi vua Trần Thiếu Đế, khi đó mới có 5 tuổi bị ép thoái vị vào năm 1400 để nhường ngôi cho ông ngoại là Hồ Quý Ly, triều Trần tồn tại 175 năm và trải qua 12 đời vua.
1: Trần Thái Tông (1225 - 1258)
Tên thật là Trần Cảnh, nguyên quán làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường, nay là xã Tức Mặc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Trần Cảnh sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần (1218), con thứ của ông Trần Thừa, thân mẫu người họ Lê. Ngày 11 tháng 12 năm Ất Dậu (1225), Trần Cảnh chính thức lên ngôi hoàng đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung, phong Lý Chiêu Hoàng làm Chiêu Thánh Hoàng hậu, phong Trần Thủ Độ là Thái sư thống quốc hành quân vụ chinh thảo sự.
Trong thời gian ở ngôi, vua đã đích thân dẫn quân đánh thắng quân Mông - Nguyên lần thứ nhất khi chúng sang xâm lược nước ta.
Ngày 24 tháng 2 năm Mậu Ngọ (1258), vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng, triều đình tôn Trần Thái Tông lên làm Thái Thượng Hoàng để cùng coi việc nước. Ngày mùng một tháng 4 năm Đinh Sửu (1277), Thái Thượng Hoàng mất, thọ 59 tuổi, ở ngôi được 33 năm, làm Thái Thượng Hoàng 19 năm. Trong thời gian ở ngôi, vua đã đặt ba niên hiệu Kiến Trung (1225 - 1232), Thiên Ứng Chính Bình (1232 - 1251), Nguyên Phong (1251 - 1258).
2: Trần Thánh Tông (1258 - 1278)
Tên thật là Trần Hoảng, là con trưởng của vua Thái Tông, mẹ là Hiển Từ Thuận Thiên hoàng thái hậu Lý Thị. Vua sinh ngày 25 tháng 9 năm Canh Tý (1240), ngay sau khi sinh đã được lập làm thái tử. Ngày 24/2 năm Mậu Ngọ (1258) được vua Trần Thái Tông truyền ngôi.
- Blogger Comment
- Facebook Comment
Subscribe to:
Post Comments
(
Atom
)
0 comments:
Post a Comment