9 Đời vua nhà Lý trong lịch sử Việt Nam (1009 - 1225)

Nhà Lý là triều đại quân chủ Việt Nam do Lý Công Uẩn (Lý Thái Tổ) sáng lập vào năm 1009. Nhà Lý truyền nối được 9 đời, với Hoàng đế cuối cùng là Lý Chiêu Hoàng, vị nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Việt Nam.
Tượng đài Lý Thái Tổ

SAU ĐÂY MỜI CÁC BẠN CÙNG TÌM HIỂU VỀ 9 VỊ VUA NHÀ LÝ TRONG LỊCH SỬ VIỆT NAM

1: Lý Thái Tổ (1010 - 1028)
Lý Thái Tổ tên thật là Lý Công Uẩn, là vị hoàng đế sáng lập nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1009 đến khi qua đời vào năm 1028.

Ông xuất thân là một võ quan cao cấp dưới triều nhà Tiền Lê, năm 1009, nhân khi vị vua cuối cùng của nhà Tiền Lê là Lê Long Đĩnh qua đời, con trai còn nhỏ, Lý Công Uẩn được lực lượng của Đào Cam Mộc và thiền sư Vạn Hạnh tôn làm hoàng đế. Trong thời gian trị vì của mình, ông dành nhiều thời gian để đánh dẹp các nơi phản loạn, vì cơ bản nước Đại Cồ Việt vẫn chưa thu phục được lòng tin của các tộc người vùng biên cương. Triều đình trung ương dần được củng cố, các thế lực phiến quân bị đánh dẹp, kinh đô được dời từ Hoa Lư về thành Đại La vào tháng 7/1010 và thành này được đổi tên thành Thăng Long, mở đầu cho sự phát triển lâu dài của nhà Lý tồn tại 216 năm.

2: Lý Thái Tông (1028 - 1054)
Vua Lý Thái Tông tên húy là Lý Phật Mã hay Lý Đức Chính, ông là con trưởng của vua Lý Thái Tổ, mẹ đẻ là bà Lê Thái Hậu. Ông sinh ngày 26/6 năm Canh Tý (năm 1000) tại Hoa Lư (Ninh Bình). Tháng 4 năm Nhâm Tý (1012), ông được lập làm Thái Tử và lên ngôi vua vào ngày 4/3 năm Mậu Thình (1028), ở ngôi vua 26 năm, ông mất ngày 1/10 năm Giáp Ngọ (1054) thọ 54 tuổi.

Vua Lý Thái Tông là vị vua anh minh và có nhiều đóng góp trong triều đại nhà Lý. Chính ông là vị vua thân chinh đi đánh dẹp các cuộc nổi dậy của Nùng Tồn Phúc, Nùng Trí Cao, năm 1044 sau cuộc chiến tranh với Chiêm Thành vua cho đại xá miễn một nửa tiền thuế để khoan sức dân, năm 1049 cho xây chùa Diên Hựu (chùa Một Cột), năm 1042 vua cho ban hành bộ luật Hình Thư như là bộ luật thành văn đầu tiên của nước ta.

Trong thời gian ở ngôi, ông có 6 lần đặt niên hiệu đó là: Thiên Thành (1028 - 1034), Thông Thụy (1034 - 1039), Càn Phù Hữu Đạo (1039 - 1042), Minh Đạo (1042 - 1044), Thiên Cảm Thánh Vũ (1044 - 1049), Sùng Hưng Đại Bảo (1049 - 1054).

3: Lý Thánh Tông (1054 - 1072)
Tên húy là Nhật Tôn. Các bộ chính sử đều chép vua là con trưởng của vua Lý Thái Tông, mẹ người họ Mai, tước Kim Thiên Thái Hậu (duy chỉ có Đại Việt Sử Lược thì chép vua là con thứ ba, mẹ là Linh Cảm Thái Hậu). Vua sinh ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi (1023) tại kinh thành Thăng Long. Ngày 6 tháng 5 năm Mậu Thìn (1028) ông được lập thành Thái Tử và lên ngôi ngày 1 tháng 10 năm Giáp Ngọ (1054), ông ở ngôi 18 năm, mất tháng 1 năm Nhâm Tý 1072, thọ 49 tuổi.

Vua được xem là ông vua thương dân, gắn bó với nông dân, đồng ruộng, ông thường đi xem cấy, gặt hái. Năm 1070 vua cho mở trường lập Văn Miếu tại kinh đô Thăng Long.

Trong 18 năm ở ngôi, vua Lý Thánh Tông đã năm lần đặt niên hiệu, đó là: Long Thụy Thái Bình (1054 - 1058), Chương Thánh Gia Khánh (1059 - 1065), Long Chương Thiên Tự (1066 - 1068), Thiên Huống Bảo Tượng (1068 - 1069), Thần Vũ (1069 - 1072).



4: Lý Nhân Tông (1072 - 1127)
Tên húy là Càn Đức, con trưởng của vua Lý Thánh Tông, mẹ đẻ là Linh Nhân Thái Hậu (tức bà Ỷ Lan). Vua sinh ngày 25 tháng 1 năm Bính Ngọ (1066) tại kinh thành Thăng Long, lên ngôi tháng 1 năm Nhâm Tí (1072), ở ngôi 55 năm, mất ngày 12 tháng 12 năm Đinh Mùi (1127), thọ 61 tuổi.

Trong thời gian vua Lý Nhân Tông ở ngôi, nhà Tống có ý đồ xâm lược nước ta, vua và Thái uý Lý Thường Kiệt đã chủ động đánh đuổi quân Tống, và đã chiến thắng ở sông Như Nguyệt, đánh đuổi được quân Tống.

Năm 1076, vua cho mở trường Quốc Tử Giám ở kinh đô Thăng Long, cũng từ đây, nền giáo dục đại học của nước ta được khai sinh.

Trong 55 năm ở ngôi vua đã 8 lần đặt niên hiệu đó là: Thái Ninh (1072 - 1076), Anh Vũ Chiêu Thắng (1076 - 1084), Quảng Hựu (1085 - 1092), Hội Phong (1092 - 1100), Long Phù (Long Phù Nguyên Hóa) (1101 - 1109), Hội Tường Đại Khánh (1110 - 1119), Thiên Phù Duệ Vũ (1120 - 1126), Thiên Phù Khánh Thọ (1127).

Bài thơ Nam Quốc Sơn Hà
5: Lý Thần Tông (1127 - 1138)
Tên húy là Dương Hoán, con trưởng của em ruột vua Nhân Tông là Sùng Hiền Hầu, được vua Trần Nhân Tông nhận làm con nuôi rồi sau truyền ngôi cho, mẹ đẻ là phu nhân họ Đỗ. Thần Tông là cháu ruột của vua Nhân Tông. Vua sinh tháng 6 năm Bính Thân (1116), năm Đinh Dậu (1117) thì được Nhân Tông nhận làm con nuôi. Khi vua Nhân Tông mất, ông được lên nối ngôi vào cuối tháng 12 năm Đinh Mùi (1127). Vua ở ngôi 10 năm, mất ngày 26 tháng 9 năm Mậu Ngọ (1138), thọ 22 tuổi.

Vua Lý Thần Tông coi trọng việc phát triển nông nghiệp, thực hiện chính sách "ngụ binh ư nông", cho binh lính đổi phiên, cứ lần lượt 6 tháng một được về làm ruộng, do vậy nhân dân no đủ, an cư lạc nghiệp. Trong thời gian ở ngôi, vua Lý Thần Tông đã đặt hai niên hiệu: Thiên Thuận (1128 - 1132), Thiên Chương Bảo Tự (1133 - 1138).

6: Lý Anh Tông (1138 - 1175)
Tên húy là Thiên Tộ, con trưởng của Lý Thần Tông, mẹ đẻ là Lê Thái Hậu. Vua sinh tháng 4 năm Bính Thìn (1136) và lên ngôi ngày 1 tháng 10 năm Mậu Ngọ (1138), ở ngôi 37 năm mất vào tháng 7 năm Ất Mùi (1175) thọ 39 tuổi.

Trong 37 năm ở ngôi, ông đã đặt 4 niên hiệu:  Thiệu Minh (1138 - 1140), Đại Định (1140 - 1162), Chính Long Bảo Ứng (1163 - 1174), Thiên Cảm Chí Bảo (1174 - 1175).

7: Lý Cao Tông (1175 - 1210)
Tên húy là Long Trát hay Long Cán, là con thứ 6 của Vua Anh Tông, mẹ đẻ là Thụy Châu Thái Hậu, người họ Đỗ. Vua sinh ngày 25 tháng 5 năm Quý Tị (1173), lên ngôi tháng 7 năm Ất Mùi (1175), ở ngôi 35 năm, mất ngày 28 tháng 10 năm Canh Ngọ (1210), thọ 37 tuổi.

Trong thời gian ở ngôi, vua ăn chơi vô độ do vậy giặc cướp nổi lên ở nhiều nơi, dân đói kém liên miên, cơ nghiệp nhà Lý suy đồi từ đây dù đã có dấu hiệu từ thời vua Lý Anh Tông.

Vua Lý Cao Tông có 4 lần đặt niên hiệu: Trinh Phù (1176 - 1186), Thiên Tư Gia Thụy (1186 - 1202), Thiên Gia Bảo Hựu (1202 - 1205), Trị Bình Long Ứng (1205 - 1010).

8: Lý Huệ Tông (1210 - 1224)
Tên húy là Hạo Sảm, con trưởng của vua Cao Tông, mẹ để là Đàm Thái Hậu. Vua sinh tháng 7 năm Giáp Dần (1194), được lập làm Thái tử vào tháng 1 năm Mậu Thìn (1208), lên ngôi cuối năm Canh Ngọ (1210), ở ngôi 14 năm. Năm Giáp Thân (1224), Vua nhường ngôi cho con gái thứ là Lý Chiêu Hoàng rồi đi tu ở chùa Chân Giáo (trong thành Thăng Long, hiệu là Huệ Quang Thiền Sư). Mặc dù ông ở ngôi Vua, nhưng mọi việc triều đình đều do Trần Thủ Độ điều hành. Huệ Tông sau đó bị nhà Trần bức tử vào tháng 8 năm Bính Tuất (1226), thọ 32 tuổi. Trong 14 năm trị vì, Vua chỉ đặt một niên hiệu là Kiến Gia (1211 - 1224)

9: Lý Chiêu Hoàng (1224 - 1225)
Tên húy là Phật Kim, lại có tên húy khác là Lý Thiên Hinh Nữ, được vua cha là Lý Huệ Tộng phong làm Chiêu Thánh công chúa, là con thứ hai của vua Lý Huệ Tông, mẹ đè là Thuận Trinh thái hậu Trần Thị Dung. Bà sinh tháng 9 năm Mậu Dần (1218). Tháng 10 năm Giáp Thân (1224) được vua cha truyền ngôi. Đến tháng 12 năm Ất Dậu (1225) dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh (là cháu gọi Trần Thủ Độ bằng chú, sau này là vua Trần Thánh Tông), từ đây bà là Chiêu Thánh hoàng hậu. Nhà Lý chấm dứt từ đó. Lý Chiêu Hoàng mất vào tháng 3 năm Mậu Dần (1278), thọ 60 tuổi. Niên hiệu trong thời gian bà ở ngôi là Thiên Chương Hữu Đạo.
Share on Google Plus

About Anh Bán Báo

This is a short description in the author block about the author. You edit it by entering text in the "Biographical Info" field in the user admin panel.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 comments:

Post a Comment