Nguồn gốc loài người - bầy người nguyên thủy

Con người xuất hiện từ bao giờ? Câu hỏi đó không phải đến nay mới được đặt ra. Sự quan tâm của con người tới nguồn gốc "xuất thân" của mình được thể hiện qua rất nhiều truyền thuyết, truyện cổ tích về sự sáng tạo thế giới mà bất cứ dân tộc nào cũng có. Thời cổ đại, một số học giả lại cho rằng thoạt đầu con người có hình dáng nửa người nửa động vật.  Thời trung đại, giáo lí của các tôn giáo, dưới nhiều hình thức khác nhau, đều giải thích rằng con người do thượng đế sinh ra.

Vườn địa đàng, Adam và Eva (Ảnh: internet)

Những bằng chứng khoa học về nguồn gốc loài người.

Đến giữa thế kỉ XVIII, vấn đề về vị trí của con người trong thế giới tự nhiên mới được đặt ra trên nền tảng khoa học thực sự khi Cac Linnay xếp con người vào cùng hệ thống với thế giới động vật. Từ đó, qua nghiên cứu, các nhà khoa học ngày càng nhận thấy cơ thể của người và lớp động vật có vú, đặc biệt là giống vượn hình người hiện đại như Gibbon, Orang Outang, Gorille, Chimpanze có rất nhiều nét gần gũi nhau. Những kết quả nghiên cứu của nghành động vật học cao cấp cũng cho thấy, một số động vật có vú cũng mắc một số căn bệnh mà trước kia người ta thường cho rằng chỉ có loài người mới có, những động vật này cũng chịu thuốc kháng sinh và các loại vắc xin phòng dịch. Khi nghiên cứu quá trình phát triển của bào thai người, nghành phôi thai học đã đi đến kết luận: quá trình hình thành bào thai người là sự "rút ngắn" của hàng triệu năm tiến hóa từ động vật trở thành người.

Sau khi công trình của Dacuyn được công bố năm 1871, nguồn gốc động vật của loài người đã được nhiều nghành, nhiều nhà khoa học tìm kiếm, chứng minh bằng những bằng chứng khoa học, trong đó nổi bật nhất là việc phát hiện những di cốt hóa thạch của loài vượn cổ và người vượn trung gian, cho phép khôi khôi phục lại các mắt xích của quá trình chuyển biến từ vượn thành người.

Ở chặng đầu của quá trình có một loài vượn cổ hay còn gọi là vượn nhân hình Hominid, sống ở cuối thế kỉ thứ ba của thời đại Tân sinh, cách ngày nay khoảng hơn 6 triệu năm. Loài vượn nhân hình này đã có thể đứng và đi bằng hai chân, dùng hai chi trước để cầm nắm, ăn hoa quả, lá cây, của và cả động vật nhỏ. Trong quá trình phát triển, loài vượn nhân hình này cũng tiến hóa dần dần, ngày càng gần với người hơn: từ loài vượn Driopithecus đến Ramapithecus và bước tiến hóa rõ rệt hơn cả là vượn phương Nam - Australopithecus. Di cốt hóa thạch của những loài vượn này đã được tìm thấy ở Đông Phi, Tây Á, Ấn Độ, Trung Quốc và cả ở Lạng Sơn (Việt Nam).

Loài vượn nhân hình Hominid là tổ tiên chung của loài người và các giống vượn hiện đại. Từ Hominid, một nhánh nào đó đã phát triển lên thành người Homo Habilis (người khéo léo). Đó là giai đoạn thứ hai và là bước ngoặt quan trọng trong quá trình tiến hóa. Di cốt của một trong những Homo Habilis đã được hai vợ chồng L.Leakey phát hiện năm 1960 ở thung lũng Onduvai (Tanzalia). Thể tích hộp sọ là 650 cm3 và có niên đại khoảng 1.850.000 năm. Năm 1976, Clark Howall công bố những phát hiện mới trong những năm 1967 - 1976 ở thung lũng Ô mô (Etiopia). Tại đây đã phát hiện những hóa thạch động vật có vú và người Homo Habilis có niên đại khoảng 2500000 năm. Đặc biệt, năm 1974, D Johanson đã tìm thấy ở thung lũng Afar (Etiopia) một di cốt hóa thạch khá đầy đủ. Đó là một cô gái khoảng 25 - 30 tuổi, được đặt tên là Lucy và tuổi của cô được xác định bằng phương pháp Kali Acgong là 3.500.000 năm. Lucy đã thường xuyên ở tư thế đứng thẳng.

Cũng trong năm 1974, Mary Leakey đã phát hiện ở Lactoni (Tanzania) 42 răng người và một hàm hóa thạch với 9 chiếc răng nguyên vẹn. Niên đại của chúng được xác nhận là khoảng 3.700.000 năm.

Điều đặc biệt quan trọng là ở một số nơi như Omo và Rudolf (Bắc Kenia), người ta cũng tìm thấy những cộng cụ đá chôn cùng với hóa thạch Homo Habilis. Những phát hiện mới này không những đã đẩy niên đại của sự xuất hiện loài người lên khoảng 3.500.000 đến 4.000.000 năm cách ngày nay, mà còn làm nảy sinh nhiều giả thuyết mới về cái nôi của loài người và về động lực quá trình tiến hóa từ vượn thành người.

Quá trình tiến hóa từ vượn thành người (Ảnh internet)
Giai đoạn tiếp theo là giai đoạn của những người Homo Erectus (người đứng thẳng). Địa điểm đầu tiên phát hiện ra loại người vượn này là Trinil ở miền Trung Java (Indonexia). Trong những năm 1891 - 1892, bác sĩ Dubois người Hà Lan đã khai quật được ở đây một răng hàm trên, nắp sọ và một xương đùi. Tới năm 1894, ông công bố chi tiết phát hiện của mình và đặt tên cho nó là Pithecanthropus Erectus. Dung tích sọ não của người Pithecanthropus Erectus đã vào khoảng từ 750 đến 975 cm3. Họ đã biết phát ra tiếng nói và biết chế tạo công cụ lao động.

Một đại diện rất nổi tiếng của Homo Erectus là Sinanthropus (người vượn Bắc Kinh) mà hóa thạch răng của nó đã được phát hiện trong những năm 1921 - 1923, ở Chu Khẩu Điếm gần Bắc Kinh. Đến năm 1937, ở khu vực này, người ta đã phát hiện được khoảng 40 cá thể của loài người vượn này và cho tới gần đây vẫn có những phát hiện lẻ tẻ khác nữa.

Người Sinanthropus có sọ dẹt, trán dốc thoải, u trán nổi rõ, dung tích sọ khá lớn (từ 850 - 1220 cm3). Họ đã biết chế tạo công cụ bằng đá rất thô sơ, biết duy trì và sử dụng lửa tự nhiên.

Di cốt và mảnh di cốt của người Homo Erectus được tìm thấy ở nhiều nơi khác như Ấn Độ, Kenia... vào những năm 1964 - 1065, các cán bộ khoa học Việt Nam đã phát hiện được một chiếc răng ở hang Thẩm Hai và 9 chiếc khác ở hang Thẩm Khuyên (Bình Gia, Lạng Sơn). Những chiếc răng này đều có niên đại trung kì Pleistocene và đều là răng của Homo Erectus.

Đến thời hậu kì Pleistocene đã xuất hiện một dạng người mới, gần với người hiện đại hơn. Di cốt hóa thạch tiêu biểu của dạng người này đã được tìm thấy lần đầu tiên vào năm 1956 ở một thung lũng nước Đức mà giới khoa học gọi là người Neandectan. Thân thể người Neandectan đã rất giống với người hiện đại, thể tích hộp sọ khá lớn - từ 1200 đến 1600 cm3. Vì thế, khả năng lao động và ngôn ngữ của họ cũng phát triển hơn. Di cốt của dạng người Neandectan - cả của người lớn và trẻ con, còn được tìm thấy ở nhiều nơi khác như Anh, Pháp, Italia, Tây Ban Nha, vùng Trung Á, Trung Quốc...

Đến khoảng 4 vạn năm trước đây, người hiện đại hay người tinh khôn (Homo Saphiens) đã ra đời. Homo Sapiens có cấu tạo cơ thể phát triển như người ngày nay. Các bộ phận cơ thể đã trở nên hoàn thiện, hai bàn tay nhỏ, khéo léo, các ngón tay, nhất là ngón cái linh hoạt hơn, trán cao, xương hàm nhỏ và không còn nhô ra phía trước, não đặc biệt phát triển.

Sự xuất hiện của Homo Sapiens là bước nhảy vọt thứ hai sau bước nhảy vọt từ vượn thành người Homo Habilis. Di cốt của họ đã được tìm thấy ở hầu khắp các lục địa. Sự phát hiện các di cốt hóa thạch cùng với công cụ lao động của các dạng người nói trên không những đã cung cấp cho chúng ta những bằng chứng khoa học không thể chỗi cãi được về nguồn gốc động vật của loài người, mà cón giúp ta thấy rõ cả quá trình hình thành loài người với những niên đại ngày càng được xác định chính xác hơn.

Những độc lực thúc đẩy quá trình chuyển biến từ vượn thành người
Người vượn và công cụ lao động bằng đá (Ảnh Internet)
Nếu như vấn đề về nguồn gốc động vật của loài người được giới khoa học ngày nay gần như hoàn toàn nhất trí, thì một câu hỏi khác: động lực nào đã thúc đẩy quá trình tiến hóa từ vượn thành người lại là một trong những vấn đề còn gây nhiều tranh luận. Trước thế kỉ XIX đã có nhiều nhà sinh vật học và triết học muốn giải thích vấn đề nguồn gốc loài người bằng những cứ liệu khoa học và quan niệm duy vật, trong đó có Dacuyn, nhà bác học thiên tài đã thử giải thích quá trình này bằng quy luật chọn lọc tự nhiên. Nhưng Dacuyn mới chỉ xem xét vấn đề trên góc độ của các quy luật sinh vật học, còn vai trò của các quy luật xã hội thì chưa được chú ý đến. Thiếu sót đó đã được Ph. Enghen bổ xung và trả lời một cách đầy đủ trong một luận văn nổi tiếng "Tác dụng của lao động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người". Trong tác phẩm này, Ph. Enghen đã khẳng định; "Lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ sinh hoạt loài người, và như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói: lao động đã sáng tạo ra chính bản thân con người".

Khác với loài vật, con người biết lao động sản xuất cải tạo thiên nhiên. Ngay từ khi thoát thai khỏi loài vượn, con người đã biết chế tạo công cụ sản xuất. "Lao động bắt đầu với việc chế tạo ra công cụ". Đó là lao động sáng tạo của con người; nó khác hoàn toàn với lao động bản năng của động vật. Bất cứ một con vượn nào cũng không thể làm ra được một công cụ sản xuất, dù chỉ là công cụ đá thô sơ nhất. Loài vượn phương Nam mới chỉ biết đùng cành cây và đá để tự vệ trước sự tấn công của thú dữ mà thôi. Chính trong lao động sáng tạo, cơ thể và tư duy của con người ngày càng hoàn thiện và phát triển. Trải qua hàng triệu năm, hai chi trước của con vượn đã dần dần trở thành hai bàn tay, trung khu ngôn ngữ hình thành ở não thùy trái "Trước là lao động, sau nữa vẫn là lao động và đồng thời với nó là tiếng nói, đó là sự kích thích  chủ yếu đã ảnh hưởng đến bộ óc của con vượn, làm cho bộ của nó dần dần biến chuyển thành bộ óc của con người. Cũng chính trong lao động, con người có nhu cầu phải trao đổi, liên kết với nhau làm nảy sinh những quan hệ giữa người với người". Từ đó Ph. Enghen khẳng định: "Lao động đã sáng tạo ra xã hội loài người".

Cùng với cách giải thích theo quy luật tiến hóa của Dacuyn, quan điểm của Ph. Enghen về vai trò quyết định của lạo động trong quá trình chuyển biến từ vượn thành người đã góp phần hoàn thiện học thuyết về động lực của quá trình tiến hóa đó. Song với những phát hiện mới đây về cổ nhân học ở vùng Đông Phi, một số học giả đã đưa ra một số giả thuyết mới cho rằng, động lực chính thúc đẩy quá trình chuyển biến từ vượn thành người chỉ có thể là các quy luật sinh vật học trong đó có quy luật di truyền và đột biến.
Share on Google Plus

About KHLS Studio

This is a short description in the author block about the author. You edit it by entering text in the "Biographical Info" field in the user admin panel.
    Blogger Comment
    Facebook Comment

0 comments:

Post a Comment